18 Ngủ Nghỉ

Bài 18 –  NGỦ NGHỈ

Phàm sa-môn, cư sĩ khi nằm ngủ, chẳng được nằm ngửa, chẳng được nằm sấp cùng chẳng được nằm nghiêng hông bên trái.  Mà phải nằm nghiêng hông bên phải, nên lấy bàn tay phải gối đầu, bàn tay trái gác dài xuôi theo vế chân trái, đây gọi là cách nằm kiết tường. 

Lời phụ: Tăng chú viết: phàm lúc nằm đầu phải gối, hoặc co cánh tay mà gối, chớ nên để đầu dưới chiếu.  Nằm ngửa là cách nằm của A-tu-la, nằm sấp là lối nằm theo điệu Ngạ-quỷ, nằm nghiêng hông bên trái là lối nằm theo những người tham-dục.  Nằm xuôi thân nghiêng thân bên phải là phép nằm kiết tường theo lối của “sư-tử vương”.

Lúc nằm hông bên phải sát chiếu chồng hai chân, miệng ngậm, tay phải gối đầu, tay trái duỗi xuôi theo trên mình, tâm tưởng nghĩ nhớ, chớ quên niệm huệ. Phép nằm ngủ như thế, khiến thân không day trở, niệm không quên mất.  Ngủ chẳng nên ngủ nhiều, thời chẳng thấy chiêm bao dữ, cho nên gọi là kiết-tường vậy.

Chỉ nên nằm giường đơn một mình, chẳng được cùng người khác chung giường, tuy là cư sĩ tự có thê tử, cũng lại chẳng nên chung chăn gối thường, hãy biết tự tiết chế.  Gần đến giờ ngủ, chẳng nên dụng tâm tư nhiều, khởi nghĩ suy tưởng tất ngủ chẳng được an giấc.

Lời phụ: Theo Duy Thức Học, ngủ cũng có khi thiện mà cũng có lúc lại ác: ngủ phải thời là thiện, còn ngủ trong khi nghe kinh hay niệm Phật là ác; Bởi ngủ là bản tính mờ tối sẵn có ở trong tâm của mỗi chúng ta, hiện ra dưới trạng thái lười mệt, chểnh mảng. 

Khi một người đang ngủ thì sự quan sát của họ lúc ấy đối với thân thể, thế giới bên ngoài đã mất hết tác dụng, trái với tâm lúc thức.  Lúc ấy, ý thức tối tăm, mơ hồ, chỉ khác với trạng thái thất thần, vô ý thức.  Nhưng nhờ vào ngủ có khả năng khôi phục tinh lực của thân tâm, tiêu trừ sự mệt nhọc, nên có thể xem đồng nghĩa với nghỉ ngơi vậy.

Trước khi ngủ nên dành ra một thời khắc tĩnh tọa, thầm niệm bài kệ như bên dưới, ngồi mệt rồi mới nên ngủ.  Chẳng được cởi hết nội y mà ngủ, chẳng được cười nói lớn tiếng, nên thầm niệm như bài kệ bên dưới.  Nếu ngẫu nhiên có mộng di tinh, ấy là do tâm trì giới chưa kiên định mà ra, cần phải càng cố giữ tâm niệm trì giới cho kiên định.  Trời chưa sáng, nên dậy sớm để tĩnh tọa một thời khắc rồi mới nên xuống giường và rời khỏi nhà.  Trong đời sống sinh hoạt hằng ngày, tùy lúc tùy nơi đều nên niệm thầm theo những bài kệ như văn dưới, để ngăn ngừa tâm tán loạn, làm tăng trưởng bồ-đề tâm.  Phàm mang đồ tiểu tiện, chẳng được trước Thánh-tượng hay pháp-đường mà đi thẳng sang, phải đi đường vòng và đi cách xa.

Lời phụ:  Văn nói: phàm mang đồ tiểu tiện, là nói các thứ ô uế dơ bẩn chẳng được mang qua trước Thánh-tượng cùng để hơi hôi bay vào nơi thờ phượng.

SÀNG TỌA KỆ   

(Trải Tọa Cụ)

Nhược phu sàng tọa 

Đương nguyện chúng sanh

Khai phu thiện pháp

Kiến chân thật tướng.        

Tạm dịch:

Trải bày tọa cụ

Nên nguyện chúng sanh

Mở bày thiện pháp

Thấy chân thật tướng.

***

TẨM TỨC KỆ  (Ngủ Nghỉ)

Dĩ thời tẩm tức

Đương nguyện chúng sanh

Thân đắc an ẩn  

Tâm vô loạn động      

Tạm dịch:

Ngủ nghỉ theo thời

Nên nguyện chúng sanh

Thân được an ổn

Tâm không loạn động.

 A (Quán chữ A phạn tự 21 biến).

***

TẢO GIÁC KỆ  (Sáng Thức Dậy)

Thùy miên thỉ ngộ     

Đương nguyện chúng sanh

Nhất thiết trí giác       

Châu cố thập phương.

Tạm dịch:

Ngủ nghỉ mới thức

Nên nguyện chúng sanh

Hết thảy trí giác

Rải khắp mười phương.

***

KHAI CHUNG KỆ  (Nghe Chuông)

Văn chung thinh, phiền não khinh

Trí huệ trưởng, bồ-đề sanh      

Ly địa ngục, xuất hỏa khanh

Nguyện thành Phật, độ chúng sanh.         

Án già ra đế da, sa-ha (3x).

Tạm dịch:

Nghe tiếng chuông, phiền não nhẹ

Trí tuệ lớn, Bồ-đề sanh

Thoát địa-ngục, vượt hầm lửa

Nguyện thành Phật, độ chúng sanh.

***

TRƯỚC Y KỆ  ( Mặc Y Phục)

Nhược trước thượng y

Đương nguyện chúng sanh

Hoạch thắng thiện căn

Chí pháp bỉ ngạn.      

Nhược hạ quần thời   

Đương nguyện chúng sanh

Phục chư thiện căn,    

Cụ túc tàm quý.

Tạm dịch:

Khi mặc áo trên

Nên nguyện chúng sanh

Được thắng thiện căn

Đắc pháp giải thoát.

Khi mặc quần dưới

Nên nguyện chúng sanh

Mặc các thiện căn

Đầy đủ hổ thẹn.

          ***

THÚC ĐỚI KỆ  (Buộc Áo Giãi)

Chỉnh y thúc đới        

Đương nguyện chúng sanh

Kiểm thúc thiện căn   

Bất linh tán thất.


Tạm dịch:

Sửa áo buộc giải

Nên nguyện chúng sanh

Kiểm buộc căn lành

Chẳng để tán mất.

* * *

HẠ THÁP KỆ   (Xuống Giường)

Tùng triêu dần đán trực chí mộ   

Nhất thiết chúng sanh tự hồi hộ  

Nhược ư túc hạ tán kỳ hình

Nguyện nhữ  tức thời sanh Tịnh-độ.    

Án dật đế luật ni sa-ha (3x).

Tạm dịch:

Từ sáng giờ Dần suốt đến tối

Hết thảy chúng sanh tự giữ mình

Nếu lỡ mất mình dưới chân tôi

Xin nguyện tức thời sanh Tịnh-độ.

* * *


 

CỬ TÚC KỆ  (Bước Chân Đi)

Nhược cử ư túc   

Đương nguyện chúng sanh 

Xuất sanh tử hải 

Cụ chúng thiện pháp. 

Tạm dịch:

Vừa nhấc bước chân

Nên nguyện chúng sanh

Vượt biển sanh tử

Đủ mọi pháp lành.

Án địa rị nhật rị sa-ha (3x).

***

XUẤT XÁ KỆ   (Ra Khỏi Nhà)

Tùng xá xuất thời

Đương nguyện chúng sanh 

Thâm nhập Phật trí     

Vĩnh xuất tam-giới.     

Tạm dịch:

         Từ nhà đi ra

Nên nguyện chúng sanh

Vào sâu trí Phật

Thoát hẳn ba cõi.